Việc tham gia Hiệp định đối tác thương mại tự do châu Á Thái Bình Dương sẽ mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức trong việc phát triển nền kinh tế của Việt Nam.
Ngày 5-10-2015, Hiệp định đối tác thương mại tự do châu Á Thái Bình Dương (TPP) đã được thỏa thuận thành công. Ngoài những nội dung như mở cửa thị trường hàng hóa, tự do hóa lĩnh vực đầu tư, dịch vụ, TPP còn đề cập đến nhiều lĩnh vực mới như lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, hạ thuế đánh vào các mặt hàng như xe tải, gạo, dệt may... Với Việt Nam, đây là cơ hội để đẩy mạnh hơn nữa công cuộc tái cơ cấu lại nền kinh tế, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức không nhỏ cần giải quyết.
Triển vọng phát triển nền kinh tế
Theo đánh giá của giáo sư Peter A.Petri – Đại học Brandeis (Mỹ), Việt Nam sẽ là quốc gia hưởng lợi nhiều nhất khi tham gia TPP với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) có thể tăng thêm 35,7 tỷ USD vào năm 2025 nếu ngành sản xuất nội địa đáp ứng được hàng rào kỹ thuật của các đối tác.
So với các nước trong TPP, Việt Nam là nước có nền kinh tế nhỏ với mức lương trung bình thấp, nhưng lại có nhiều tiềm năng trở thành một trung tâm xuất khẩu mới khi Mỹ và Nhật Bản là những thị trường nhập khẩu lớn. Thống kê cho thấy, xuất khẩu của Việt Nam vào các nước thành viên TPP năm 2014 đạt 58,41 tỷ USD, trở thành nước xuất siêu tại 7-11 nền kinh tế trong hiệp định. Theo Ngân hàng thế giới (World Bank), các nước thành viên TPP hiện chiếm 38,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó riêng Mỹ đã chiếm gần 21% và Nhật Bản chiếm gần 9%.
Khi tham gia TPP, mức độ mở cửa thị trường dịch vụ tài chính của Việt Nam cũng sẽ tăng lên, tạo thuận lợi để thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Đây là điều kiện tốt cho hệ thống ngân hàng tăng cường thanh khoản và tiếp cận nguồn vốn quốc tế với chi phí thấp hơn.
Hiện nay, đầu tư trực tiếp của các nước trong TPP vào Việt Nam đang ước đạt 100,4 tỷ USD, chiếm 40% tổng lượng vốn FDI và hy vọng sẽ tiếp tục tăng khi hiệp định chính thức có hiệu lực. Dòng vốn từ nhiều thành viên TPP có trình độ phát triển cao sẽ mang lại những lợi ích lan tỏa đáng kể về công nghệ cũng như kỹ năng quản lý, hay các lĩnh vực dịch vụ có giá trị gia tăng cao.
Việc tăng đầu tư cũng sẽ thúc đẩy sự hình thành vốn cố định và tạo cơ hội cho Việt Nam khai thác lợi thế tiềm năng về nông nghiệp cũng như dệt may. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội tốt tận dụng thuế xuất nhập khẩu thấp vào các nước TPP để mở rộng thị trường, nâng cao thu nhập.
Một trong những hạn chế của chúng ta hiện nay là công nghiệp phụ trợ còn khá yếu kém, chưa phát triển. Hiệp định TPP sẽ thúc đẩy phát triển công nghiệp phụ trợ và giảm đáng kể thuế nhập khẩu ở những mặt hàng thế mạnh của chúng ta vào các nước thành viên. Điều này làm tăng sức cạnh tranh của Việt Nam với hàng hóa tương tự từ các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia hay Thái Lan. Ngoài ra, khi gia nhập TPP sẽ giúp chúng ta chủ động hơn về nguyên vật liệu cho phát triển nền kinh tế, điều này sẽ thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp phụ trợ cũng như mở rộng quy mô sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam.
Ngành giày da Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội phát triển khi tham gia TPP (ảnh internet)
Nhiều sức ép lớn
Bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những khó khăn từ chính hiệp định TPP.
Đầu tiên là việc, dù tỷ lệ xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng cơ cấu hàng xuất khẩu của chúng ta chưa mang tính hiệu quả, chủ yếu xuất khẩu những mặt hàng có hàm lượng công nghệ thấp, có tỷ lệ thâm dụng lao động cao... Ngoài ra, xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô, chưa qua sơ chế hoặc gia công. Điều này đã khiến việc cạnh tranh về giá cả, chất lượng, giá trị tăng thêm của hàng hóa trở nên yếu kém..
Quy mô doanh nghiệp xuất khẩu cũng còn tương đối nhỏ, không thâm nhập được vào hệ thống phân phối chính khiến các doanh nghiệp xuất khẩu trở nên không bền vững, không chi phối được thị trường.
Khi tham gia vào TPP, các doanh nghiệp sẽ gặp phải thách thức rất lớn về cạnh tranh khi chúng ta phải mở cửa thị trường, từ đó có thể gây ra một số hệ quả về mặt xã hội. Tự do hóa thương mại quá đột ngột có thể dẫn đến phá sản và thất nghiệp ở các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh yếu. Việc giảm thu ngân sách từ việc giảm thuế nhập khẩu sau khi thực hiện TPP sẽ khiến nhà nước phải cân đối lại ngân sách chi cho các vấn đề an sinh xã hội, quốc phòng... Hơn nữa, việc giảm thuế quan có thể khiến luồng hàng nhập khẩu từ các nước TPP vào Việt Nam tăng nhanh, với giá cạnh tranh hơn sẽ dẫn tới hệ quả tất yếu là thị phần hàng hóa liên quan đến Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng lớn và ngày càng gay gắt.
Đặc biệt, ngành chăn nuôi sẽ đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt vì sản phẩm chăn nuôi của một số nước trong TPP đều sản xuất theo quy trình công nghiệp nên có lợi thế cạnh tranh vượt trội so với hàng chăn nuôi của Việt Nam.
Khó khăn lớn nhất chính là việc các nước thành viên thường có xu hướng đàm phán nhằm giữ việc bảo hộ đối với sản phẩm của mình. Khi đó, hàng rào phi thuế quan sẽ trở nên phổ biến hơn với các yêu cầu cao hơn về chất lượng sản phẩm, trong khi điều này là điểm yếu của nền kinh tế Việt Nam. Mặt khác, theo quy tắc xuất xứ hàng hóa trong TPP, các sản phẩm từ một nước thành viên trong TPP sang các thành viên khác đòi hỏi phải có xuất xứ “nội khối”, không sử dụng các nguyên vật liệu của nước thứ 3 ngoài thành viên TPP mới được hưởng ưu đãi về thuế suất (0%). Đây là những trở ngại rất lớn với các doanh nghiệp của Việt Nam, đặc biệt là trong ngành dệt may và da giày.